Bến Tre được hình thành trên 3 dãy cù lao (cù lao Bảo, cù lao Minh và cù lao An Hóa). Huyện Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam, Thạnh Phú và Chợ Lách nằm trên cù lao Minh. Từ thành phố Bến Tre đến huyện trung tâm huyện Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam khoảng 14km, Thạnh Phú 47 km và Chợ Lách 39 km. Hiện nay, đến vùng đất này “không còn phải lụy phà” như trước đây, bởi cầu Hàm Luông đã nối đôi bờ thành phố Bến Tre với dãy đất cù lao Minh.
Ca dao Bến Tre lưu truyền:
Ca dao Bến Tre lưu truyền:
Thấy dừa thì nhớ Bến Tre
Thấy bông mía trắng nhớ quê Mỏ Cày
Hay:
Sầu riêng, măng cụt Cái Mơn
Nghêu sò Cồn Lợi, thuốc thơm Mỏ Cày
Mảnh đất Mỏ Cày trước đây (nay là Mỏ cày Nam và Mỏ Cày Bắc), được hình thành từ hai con sông lớn Hàm Luông và Cổ Chiên bồi đắp qua nhiều thế kỷ, nên có địa hình tương đối bằng phẳng, gồm những cánh đồng lúa, những ruộng mía và vườn cây ăn trái thỉnh thoảng xen kẽ một số cồn cát. Nơi đây, có diện tích trồng dừa lớn nhất tỉnh. Ngoài hai con sông lớn cặp hai bên bờ cù lao, còn có nhiều sông nhỏ, vừa và những con rạch chia cắt dọc ngang, rất thuận lợi về giao thông thủy. Xứ sở này, đã được trời đất ban tặng hai dòng sông ôm ấp, bao bọc, vun đắp phù sa cho rừng dừa nơi đây mãi mãi tốt tươi với những rặng dừa cao vút, rễ bám sâu vào đất mẹ, để dẻo dai trước bão giông, quật cường cùng con người trong đấu tranh và xây dựng.
Đứng trên đỉnh cầu Hàm Luông nhìn sang hướng Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc hay đi trên con sông Hàm Luông rộng mênh mông, du khách thỏa sức ngắm nhìn hai bên bờ sông với rừng dừa bạt ngàn xanh biếc đứng hiên ngang với những vườn cây xanh ngát. Đến đây, đâu đâu ta cũng thấy vẻ đẹp lấp lánh của những rặng dừa:
Đứng trên đỉnh cầu Hàm Luông nhìn sang hướng Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc hay đi trên con sông Hàm Luông rộng mênh mông, du khách thỏa sức ngắm nhìn hai bên bờ sông với rừng dừa bạt ngàn xanh biếc đứng hiên ngang với những vườn cây xanh ngát. Đến đây, đâu đâu ta cũng thấy vẻ đẹp lấp lánh của những rặng dừa:
“Dừa ơi dừa! Người bao nhiêu tuổi
Mà lá xanh xanh mãi đến giờ”
* Di tích lịch sử căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định:
Từ thành phố Bến Tre qua cầu Hàm Luông đến ngã tư đèn đỏ, đèn xanh, rẽ phải đi tiếp 4 km nữa là đến khu căn cứ có mật danh là T4, Y4 (hay còn gọi là căn cứ khu ủy Sài Gòn – Gia định) thuộc xã Tân Phú Tây thuộc huyện Mỏ Cày Bắc.
Tháng 6-1969, cơ quan lãnh đạo của Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chuyển về đóng tại xã Tân Phú Tây. Đây là vùng mới giải phóng, nhân dân kiên cường, có trình độ giác ngộ chính trị cao, địa hình lại rất hiểm trở, nhiều kênh rạch chia cắt, có nhiều vườn dừa liên tiếp che chắn, địch không thể hành quân bằng xe cơ giới, thiết giáp, kể cả việc dùng trực thăng đổ quân cũng bị nhiều hạn chế.
Bên trong căn cứ, ta thiết lập hàng chục hầm kiên cố có khả năng chịu đựng được pháo 105 ly, những công sự chiến đấu và hệ thống hầm bí mật, chỗ làm việc của lãnh đạo Khu ủy, nơi giành cho các cuộc hội nghị, cơ sở hậu cần, bảo vệ v.v… Ở vòng ngoài là hành lang bảo vệ và đầu mối liên lạc, gồm các xã chung quanh như Thành An, Hòa Lộc, Thạnh Ngãi, Phước Mỹ Trung. Thời gian đóng căn cứ ở đây không dài, nhưng cơ quan Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã được sự hỗ trợ, cưu mang đầy tình nghĩa của quân và dân huyện Mỏ Cày nói riêng và tỉnh Bến Tre nói chung.
Tháng 6-1969, cơ quan lãnh đạo của Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chuyển về đóng tại xã Tân Phú Tây. Đây là vùng mới giải phóng, nhân dân kiên cường, có trình độ giác ngộ chính trị cao, địa hình lại rất hiểm trở, nhiều kênh rạch chia cắt, có nhiều vườn dừa liên tiếp che chắn, địch không thể hành quân bằng xe cơ giới, thiết giáp, kể cả việc dùng trực thăng đổ quân cũng bị nhiều hạn chế.
Bên trong căn cứ, ta thiết lập hàng chục hầm kiên cố có khả năng chịu đựng được pháo 105 ly, những công sự chiến đấu và hệ thống hầm bí mật, chỗ làm việc của lãnh đạo Khu ủy, nơi giành cho các cuộc hội nghị, cơ sở hậu cần, bảo vệ v.v… Ở vòng ngoài là hành lang bảo vệ và đầu mối liên lạc, gồm các xã chung quanh như Thành An, Hòa Lộc, Thạnh Ngãi, Phước Mỹ Trung. Thời gian đóng căn cứ ở đây không dài, nhưng cơ quan Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã được sự hỗ trợ, cưu mang đầy tình nghĩa của quân và dân huyện Mỏ Cày nói riêng và tỉnh Bến Tre nói chung.
Những di tích của căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định coi như bị bom đạn địch xóa sạch trong chiến tranh. Để lưu giữ lại dấu tích của một thời chiến đấu gian khổ, hào hùng, tỉnh Bến Tre đã phục chế lại hai hầm trú ẩn bằng bê tông giả thân cây dừa và dựng bia lưu niệm tại xã Tân Phú Tây. Hiện nay, khu di tích này đang được phục hồi, sau khi hoàn thiện sẽ rộng khoảng 2ha, với các hạng mục chính như: hầm ở và làm việc của ông Võ Văn Kiệt; nơi ở và làm việc của bộ phận cơ yếu, hầm cứu thương; hầm bí mật của các ông Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Trần Bạch Đằng…; nhà trưng bày các hiện vật lịch sử và các công trình liên quan khác. Dự kiến năm 2011 công trình hoàn thành. Xét về giá trị vật chất của công trình thì không lớn, nhưng sẽ có ý nghĩa giáo dục truyền thống yêu nước rất lớn đối với thanh thiếu niên. Công trình này sau khi hoàn thành sẽ trở thành một trong những điểm đến của các hoạt động dã ngoại, về nguồn của các bạn trẻ và cũng là điểm đến của du lịch.
* Khu di tích lịch sử Đồng Khởi Bến Tre:
Từ thành phố Bến Tre đi qua phà Hàm Luông theo quốc lộ 57, đến thị trấn Mỏ Cày Nam, rẽ trái khoảng 4km là đến khu di tích Đồng Khởi. Hoặc có thể từ thành phố Bến Tre, vượt sông Hàm Luông theo đường sông đến tận trung tâm của cái nôi Đồng khởi. Đến nơi đây, du khách bạn sẽ được gặp những người dân hồn hậu, những con người đã "bám chặt quê hương", đã đứng lên "dựng những pháo đài" ở xã Định Thủy, cái nôi của cuộc Đồng khởi năm xưa.
Thắng lợi cuộc Đồng khởi (17/01/160) tại vùng điểm (Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh) đã mở màn, cổ vũ cho phong trào nổi dậy trong toàn tỉnh, sau đó lan ra trong toàn miền. Để bảo tồn những di tích và hình ảnh, tư liệu về sự kiện lịch sử to lớn này, nhằm giáo dục truyền thống yêu nước bất khuất của người dân, và để nâng cao lòng tự hào về những chiến tích đã đạt được, lãnh đạo tỉnh Bến Tre chủ trương xây dựng tại xã Định Thủy một “Nhà truyền thống Đồng khởi”. Khu di tích này được thiết lập trên một diện tích 5.000 m2, gồm nhà bảo tàng một trệt, một lầu, có diện tích sử dụng 500 m2. Trên nóc nhà là một ngọn lửa được cách điệu bằng bê tông cốt thép cao 12 m, màu đỏ - biểu tượng của ngọn lửa Đồng khởi cháy sáng mãi trên xứ Dừa. Bên trong nhà là những gian trưng bày những hiện vật, nhân vật, hình ảnh, biểu đồ, những vũ khí tự tạo để đánh địch v.v… Chung quanh ngôi nhà là những thảm cỏ xanh, sân rộng, những bồn hoa và cây cảnh, làm tăng thêm vẻ đẹp của khu di tích.
Tại Định Thủy còn có di tích lịch sử rất độc đáo, nhưng còn ít người biết đến đó là đình Rắn với huyền thoại đầy bí ẩn.
Theo Địa chí Bến Tre, khi đình dựng xong, chức sắc của đình mới gửi sớ về triều xin phong sắc thần. Đến năm Minh Mạng thứ 5 thì đình được nhận sắc phong. Tuy đã có nơi thờ cúng nhưng vào thời đó đất đai ở đây còn hoang hóa mênh mông, đình nằm trên một khoảnh đất cao vì thế rắn độc tụ hội rất nhiều, nhiều hang ăn sâu vào giữa đình. Khi thờ cúng, các chức việc trong đình phải lấy ván bao quanh miệng hang để tránh sự cố xảy ra, từ đấy có tên Đình Rắn. Còn theo người xưa kể lại, ngày xưa nơi đây là rừng rậm, rắn, cọp, cá sấu nhiều vô kể. Ông bà mình từ Đàng ngoài trước khi vào đây phải vượt qua sông cù lao Bảo. Gặp lúc sóng to gió lớn, thuyền bè chao đảo, lúc đó có một con rắn lớn nâng bè qua sông. Cám cảnh rắn thần cứu mạng nên khi đình lập xong người dân liền “thỉnh” ông rắn về thờ. Và kể từ đây những lưu dân khai phá vùng đất này cày cấy năm nào cũng trúng mùa.
Nhiều người còn kể rằng, cũng nhờ có ông rắn mà bọn tề, ngụy, việt gian tối đến không bao giờ dám bén mảng tới nơi này. Nên kể từ sau Cách mạng tháng Tám, Đình rắn là một trong những cơ sở cách mạng bí mật để hội họp, mít tinh. Lúc bấy giờ nữ tướng Nguyễn Thị Định là một trong những người thường xuyên lui tới đây để chỉ đạo phong trào cách mạng ở Miền Nam. Đến năm 1970, cuộc chiến càng lúc lan rộng, bom đạn Mỹ đánh phá ác liệt, đình gần như bị sập hoàn toàn nên cơ sở cách mạng ở đây được chuyển đi nơi khác.
Sau ngày miền Nam được giải phóng, các cụ bắt tay tôn tạo lại ngôi đình bằng cây lá đơn sơ để thờ cúng. Đến năm 1993, Bộ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin Trần Hoàn ký quyết định công nhận ngôi đình là di tích lịch sử Đồng Khởi. Năm 2003, Tỉnh ủy Bến Tre trực tiếp chỉ đạo đầu tư, phục dựng lại ngôi đình trông thật khang trang. Đây còn là một trong những địa chỉ dừng chân lý tưởng cho những ai có dịp về thăm quê hương Đồng Khởi.
Đến Định Thủy còn có một điểm tham quan, du lịch sinh thái hấp dẫn đó là Vàm Nước Trong, cửa ngõ đường thủy của huyện Mỏ Cày Nam nối với sông Hàm Luông. Với những vườn dừa rợp bóng, những bãi bờ hoang sơ tĩnh lặng, nơi đây đã từng ghi dấu những chiến công vang dội của những người anh hùng Việt Nam. Đến đây, du khách có dịp lai rai đặc sản mắm tép kẹp với thịt ba rọi luộc hoặc ăn với cá lóc nướng trui hay tôm, tép nướng; cá ngát nấu chua với bần dốt; bánh bột gạo rau mơ hấp; bánh xèo, bánh khọt pha với nước cốt dừa, thơm béo vô cùng.
Điều du khách không thể bỏ qua là sự chân tình, mến khách, yêu thích văn nghệ của người dân Định Thủy, du khách cùng thưởng thức đờn ca tài tử và có thể giao lưu loại hình này bên dòng Hàm Luông thơ mộng rợp bóng dừa xanh.
Đến đây, khám phá sản vật thiên nhiên du khách sẽ được thưởng thức món đuông dừa (chiên mỡ), hay trước hoặc sau mùng 5 tháng 5âl (tết Đoan ngọ) khoảng một tháng, du khách sẽ vô cùng thú vị khi thưởng thức món ăn độc đáo được chế biến từ “nấm mối” xào nước cốt dừa lá cách hay xào muối ớt; nấm mối quấn lá cách nướng, lẩu nấm mối hay canh mướp, canh rau vườn nấu với mấm mối, bánh xèo mấm mối…
* Di tích lịch sử Chùa Tuyên Linh:
Thắng lợi cuộc Đồng khởi (17/01/160) tại vùng điểm (Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh) đã mở màn, cổ vũ cho phong trào nổi dậy trong toàn tỉnh, sau đó lan ra trong toàn miền. Để bảo tồn những di tích và hình ảnh, tư liệu về sự kiện lịch sử to lớn này, nhằm giáo dục truyền thống yêu nước bất khuất của người dân, và để nâng cao lòng tự hào về những chiến tích đã đạt được, lãnh đạo tỉnh Bến Tre chủ trương xây dựng tại xã Định Thủy một “Nhà truyền thống Đồng khởi”. Khu di tích này được thiết lập trên một diện tích 5.000 m2, gồm nhà bảo tàng một trệt, một lầu, có diện tích sử dụng 500 m2. Trên nóc nhà là một ngọn lửa được cách điệu bằng bê tông cốt thép cao 12 m, màu đỏ - biểu tượng của ngọn lửa Đồng khởi cháy sáng mãi trên xứ Dừa. Bên trong nhà là những gian trưng bày những hiện vật, nhân vật, hình ảnh, biểu đồ, những vũ khí tự tạo để đánh địch v.v… Chung quanh ngôi nhà là những thảm cỏ xanh, sân rộng, những bồn hoa và cây cảnh, làm tăng thêm vẻ đẹp của khu di tích.
Tại Định Thủy còn có di tích lịch sử rất độc đáo, nhưng còn ít người biết đến đó là đình Rắn với huyền thoại đầy bí ẩn.
Theo Địa chí Bến Tre, khi đình dựng xong, chức sắc của đình mới gửi sớ về triều xin phong sắc thần. Đến năm Minh Mạng thứ 5 thì đình được nhận sắc phong. Tuy đã có nơi thờ cúng nhưng vào thời đó đất đai ở đây còn hoang hóa mênh mông, đình nằm trên một khoảnh đất cao vì thế rắn độc tụ hội rất nhiều, nhiều hang ăn sâu vào giữa đình. Khi thờ cúng, các chức việc trong đình phải lấy ván bao quanh miệng hang để tránh sự cố xảy ra, từ đấy có tên Đình Rắn. Còn theo người xưa kể lại, ngày xưa nơi đây là rừng rậm, rắn, cọp, cá sấu nhiều vô kể. Ông bà mình từ Đàng ngoài trước khi vào đây phải vượt qua sông cù lao Bảo. Gặp lúc sóng to gió lớn, thuyền bè chao đảo, lúc đó có một con rắn lớn nâng bè qua sông. Cám cảnh rắn thần cứu mạng nên khi đình lập xong người dân liền “thỉnh” ông rắn về thờ. Và kể từ đây những lưu dân khai phá vùng đất này cày cấy năm nào cũng trúng mùa.
Nhiều người còn kể rằng, cũng nhờ có ông rắn mà bọn tề, ngụy, việt gian tối đến không bao giờ dám bén mảng tới nơi này. Nên kể từ sau Cách mạng tháng Tám, Đình rắn là một trong những cơ sở cách mạng bí mật để hội họp, mít tinh. Lúc bấy giờ nữ tướng Nguyễn Thị Định là một trong những người thường xuyên lui tới đây để chỉ đạo phong trào cách mạng ở Miền Nam. Đến năm 1970, cuộc chiến càng lúc lan rộng, bom đạn Mỹ đánh phá ác liệt, đình gần như bị sập hoàn toàn nên cơ sở cách mạng ở đây được chuyển đi nơi khác.
Sau ngày miền Nam được giải phóng, các cụ bắt tay tôn tạo lại ngôi đình bằng cây lá đơn sơ để thờ cúng. Đến năm 1993, Bộ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin Trần Hoàn ký quyết định công nhận ngôi đình là di tích lịch sử Đồng Khởi. Năm 2003, Tỉnh ủy Bến Tre trực tiếp chỉ đạo đầu tư, phục dựng lại ngôi đình trông thật khang trang. Đây còn là một trong những địa chỉ dừng chân lý tưởng cho những ai có dịp về thăm quê hương Đồng Khởi.
Đến Định Thủy còn có một điểm tham quan, du lịch sinh thái hấp dẫn đó là Vàm Nước Trong, cửa ngõ đường thủy của huyện Mỏ Cày Nam nối với sông Hàm Luông. Với những vườn dừa rợp bóng, những bãi bờ hoang sơ tĩnh lặng, nơi đây đã từng ghi dấu những chiến công vang dội của những người anh hùng Việt Nam. Đến đây, du khách có dịp lai rai đặc sản mắm tép kẹp với thịt ba rọi luộc hoặc ăn với cá lóc nướng trui hay tôm, tép nướng; cá ngát nấu chua với bần dốt; bánh bột gạo rau mơ hấp; bánh xèo, bánh khọt pha với nước cốt dừa, thơm béo vô cùng.
Điều du khách không thể bỏ qua là sự chân tình, mến khách, yêu thích văn nghệ của người dân Định Thủy, du khách cùng thưởng thức đờn ca tài tử và có thể giao lưu loại hình này bên dòng Hàm Luông thơ mộng rợp bóng dừa xanh.
Đến đây, khám phá sản vật thiên nhiên du khách sẽ được thưởng thức món đuông dừa (chiên mỡ), hay trước hoặc sau mùng 5 tháng 5âl (tết Đoan ngọ) khoảng một tháng, du khách sẽ vô cùng thú vị khi thưởng thức món ăn độc đáo được chế biến từ “nấm mối” xào nước cốt dừa lá cách hay xào muối ớt; nấm mối quấn lá cách nướng, lẩu nấm mối hay canh mướp, canh rau vườn nấu với mấm mối, bánh xèo mấm mối…
* Di tích lịch sử Chùa Tuyên Linh:
Chùa Tuyên Linh tọa lạc tại xã Minh Đức, từ thị trấn Mỏ Cày Nam đến Chùa Tuyên Linh khoảng 14 km, Chùa được xây dựng từ năm Tân Dậu (1861), dưới triều Tự Đức năm thứ 14 và do Hòa thượng Khánh Phong trụ trì. Đến năm 1907, nhà sư Lê Khánh Hòa, pháp danh là Thích Như Trí, quê xã Phú Lễ - Ba Tri về trụ trì tại chùa này. So với Chùa Hội Tôn cổ tự ở xã Quới Sơn - Châu Thành, chùa Tuyên Linh không cổ bằng, nhưng nơi đây đã từng diễn ra nhiều sự kiện lịch sử đáng chú ý. Năm 1930, nhân dịp chùa được trùng tu, Hòa thượng Lê Khánh Hòa đổi tên Tiên Linh tự thành Tuyên Linh tự. Từ đấy chùa được gọi bằng tên mới “Tuyên Linh”.
Theo tài liệu của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Đồng Tháp, vào khoảng cuối năm 1926, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng một vị cao tăng của chùa Từ Đàm ở Huế ghé lại và tá túc tại chùa Tuyên Linh một thời gian. Cụ Phó bảng được sự bảo bọc, giúp đỡ của Hòa thượng Lê Khánh Hòa, trong thời gian lưu trú tại chùa, đã mở lớp dạy học, xem mạch, bốc thuốc cho nhân dân trong vùng. Tuy thời gian ở đây không lâu, nhưng cụ Nguyễn Sinh Sắc có quan hệ với Trần Văn An, Huỳnh Khắc Mẫn, Lê Văn Phát. Nhiều người trong số này về sau trở thành lớp Đảng viên đầu tiên của Đảng bộ Bến Tre (1930).
Khi Cách mạng Tháng 8-1945 thành công, Hòa thượng Lê Khánh Hòa đã động viên các nhà sư và tín đồ Phật giáo trong tỉnh tham gia vào các hoạt động cách mạng và kháng chiến. Năm 1947, do tuổi già sức yếu, trên giường bệnh, ông bình tĩnh đọc lời di ngôn cho môn đồ chép lại, sắp xếp công việc đạo, căn dặn học trò thân tín vận động tín đồ tích cực tham gia kháng chiến, tin tưởng vào chính phủ Cụ Hồ, cùng đồng bào cả nước đấu tranh giành độc lập. Ngày 19-6-1947, biết mình không qua khỏi, ông bảo học trò tắm rửa sạch sẽ, thay đạo phục cho ông, rồi day mặt về hướng Bắc, nói những lời chúc tụng cuối cùng về nhà nước độc lập, về sức khỏe của Hồ Chủ Tịch, sau đó niệm Phật rồi tắt thở. Năm 1956, để tỏ lòng tôn kính một vị chân tu yêu nước, giáo hội Phật giáo đã cùng các tín đồ tổ chức lễ Trà tỳ (tức lễ thiêu hài cốt đưa tro vào bảo pháp) tại chùa Tuyên Linh. Thời kháng chiến chống Pháp, chùa Tuyên Linh là cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng. Trong những năm trước Đồng khởi, trong thế kìm kẹp khắc nghiệt của Mỹ, Diệm, vùng Tân Hương - Minh Đức, nơi có ngôi chùa Tuyên Linh, vẫn là nơi có phong trào mạnh. Các cơ quan Huyện ủy Mỏ Cày và Tỉnh ủy Bến Tre đã từng trú đóng tại đây trong sự đùm bọc của nhân dân và tín đồ đạo Phật giáo giữa những ngày khó khăn nhất của cách mạng.
Theo tài liệu của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Đồng Tháp, vào khoảng cuối năm 1926, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng một vị cao tăng của chùa Từ Đàm ở Huế ghé lại và tá túc tại chùa Tuyên Linh một thời gian. Cụ Phó bảng được sự bảo bọc, giúp đỡ của Hòa thượng Lê Khánh Hòa, trong thời gian lưu trú tại chùa, đã mở lớp dạy học, xem mạch, bốc thuốc cho nhân dân trong vùng. Tuy thời gian ở đây không lâu, nhưng cụ Nguyễn Sinh Sắc có quan hệ với Trần Văn An, Huỳnh Khắc Mẫn, Lê Văn Phát. Nhiều người trong số này về sau trở thành lớp Đảng viên đầu tiên của Đảng bộ Bến Tre (1930).
Chùa Tuyên Linh (trước và sua khi trùng tu) |
Đến Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc du khách còn được hướng dẫn tham quan cơ sở sản xuất chỉ sơ dừa, se chỉ sơ dừa, dệt thảm sơ dừa… và cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ làm từ chất liệu dừa, sản xuất kẹo dừa…
* Điểm đến huyện Thạnh Phú:
Trên bản đồ tỉnh Bến Tre, huyện Thạnh Phú nằm ở cuối cù lao Minh, chân đạp sóng biển Đông (với bờ biển dài 25 km, tính từ Vàm Rỏng đến Khâu Băng), phía tây giáp huyện Mỏ Cày Nam, phía nam giáp tỉnh Trà Vinh, ngăn cách bởi con sông Cổ Chiên, phía bắc giáp huyện Ba Tri, có ranh giới chung con sông Hàm Luông. Là một trong 3 huyện duyên hải của tỉnh Bến Tre, Thạnh Phú được biết đến với những cánh đồng bằng phẳng xen kẽ những giồng cát và những dải rừng ngập mặn ven biển. Huyện Thạnh Phú chưa phát triển mạnh về du lịch như: Châu Thành, Chợ Lách, nhưng Thạnh Phú cũng có nhiều tiềm năng, lợi thế khởi sắc phát triển du lịch. Hiện nay, Thạnh Phú đang dần dần thu hút du khách trong và ngoài tỉnh.
Sau khi qua địa phận huyện Mỏ Cày Nam, đến địa bàn Thạnh Phú du khách ghé Đại Điền thăm bia lưu liệm nơi làm lễ xuất quân của Tiểu đoàn 307 “đánh đâu được đấy - oai hùng biết mấy” của bộ đội ta trong thời kỳ chống thực dân Pháp.
Cũng tại xứ này, ai đến thăm cũng không khỏi bỡ ngỡ khi đứng trước ngôi nhà cổ đẹp, bề thế của gia tộc họ Huỳnh. Dẫu trải qua hàng trăm năm với bao cuộc bể dâu, ngôi nhà vẫn còn mang trong nó nét đặc sắc của nhà cổ đồng bằng và cái lộng lẫy của gia chủ một thời sung túc, đó là ngôi nhà cổ Hương Liêm. Nhà được cất theo hình chữ nhật, với 48 cây cột bằng gỗ lim và căm xe quý hiếm, chu vi khoảng 100 m. Tất cả cột, kèo, xiên được đục, kết gắn nhau liền lạc. Hoành phi sơn son thếp vàng với bốn chữ “Hiếu Để Trung Tín”. Thành vọng chạm, lọng, với những họa tiết phong cảnh, vật “tứ linh” thật sống động; mái nhà lợp ngói âm dương, trên mỗi miếng ngói có in hình sinh hoạt dân gian như mục đồng cỡi trâu, con gà, con cua, bó lúa rất gần gũi với đời sống sinh hoạt của nông dân.
Cấu trúc xây dựng nền nhà cũng thật đặc biệt. Nền cao 1 mét, viềng bọc nền là những thớt đá xanh dài khoảng 2-3 mét, được đục và gắn kết với nhau liền mặt bao quanh hết nền nhà. Về công thợ như: thợ chạm, lọng thành vọng, cột nhà, cửa nhà, vách nhà được tính tiền công qua số dăm mộc do thợ thao tác trong ngày. Đong ra cứ bao nhiêu chén dăm thì được trả bấy nhiêu tiền. Số thợ chuyên chạm, lọng ăn tiền rất cao. Về thời gian hoàn thành ngôi nhà, ông Huỳnh Ngọc Chất (cháu năm đời của cụ Hương Liêm, nay đã mất) từng cho biết ngôi nhà xây dựng vào những năm cuối của thế kỷ XIX. Ngày ấy, khi những người thợ đầu tiên đến động thổ, gác đòn dong dựng nhà, chủ gia mời họ ăn cam. Họ ăn những trái cam rồi nhã hột gần đó, hột lên cây và đến khi cây cho trái cam đầu tiên thì ngôi nhà mới hoàn thành. Như vậy, thời gian cất nhà khoảng 7 năm và để xong xuôi hết phần vách, thành vọng ở gian nhà giữa phải trên 10 năm. Với nhà xưa, người ta thường ví von: “Cất nhà ba tháng. Làm cửa ba năm”. Thợ làm nhà này là những người thợ tài hoa từ Bắc di cư vào Nam.
Đến đây, du khách không thể bỏ qua đặc sản truyền thống bánh dừa Giồng Luông nổi tiếng ở Thạnh Phú, một khi du khách đã thưởng thức rồi thì không thể nào quên bởi sự khéo tay của phụ nữ Đại Điền hay bì bún Giồng Luông cũng rất độc đáo.
Rời Đại Điền, đến Hòa Lợi du khách tham quan làng nghề truyền thống sản xuất lu chứa nước bằng chất liệu xi-măng, nghề ở đây “Cha truyền con nối” và sản phẩm này cũng được tiêu thụ tại địa phương, một số tỉnh và xuất khẩu sang Campuchia.
Trở ra Quốc lộ 57, trên đường đến trung tâm huyện Thạnh Phú, du khách ghé Mỹ Hưng tham quan nghề chằm nón. Nghề này do anh Trần Công Thành ở ấp Thạnh Hưng gầy dựng, bởi Bà ngoại của anh là người Huế, sống bằng nghề chằm nón lá bài thơ, do vậy mà anh gầy dựng nghề chằm nón là lẽ đương nhiên. Vì “không muốn nghề chằm nón bị mai một” là ước nguyện của người thân cũng như của anh, năm 1985 anh Thành đem nghề này truyền lại cho 30 hộ trong xóm. Anh Thành nhận xét bà con ở đây chằm nón rất khéo, có người chằm đẹp hơn thợ chằm nón lá ở Huế. Nón được chằm bằng lá cật phải mua tận Bến Cầu (Tây Ninh), còn vành nón được làm bằng tre của Thạnh Phú. Cứ thế, lá của Tây Ninh, vành của Bến Tre, người chằm nón ở Thạnh Hưng chăm chút, thổi hồn vào từng đường kim mũi chỉ khiến nón lá Mỹ Hưng càng nhìn càng dễ thương. Tham quan nơi đây, du khách sẽ cảm nhận và tận mắt chứng kiến sự khéo tay không chỉ có nữ mà còn có cả nam giới ở đây. Nghề này ít nhiều cũng đã góp phần cho địa phương giảm được tỉ lệ hộ nghèo cũng như giúp được người dân nơi đây có thêm thu nhập trong khoảng thời gian nhàn rỗi. Trên thực tế nón lá cũng là một sản phẩm phục vụ cho khách du lịch. Duy trì được nghề chằm nón cũng là góp phần bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống của dân tộc ta.
Không những tham quan nghề đúc lu, chằm nón, mà du khách còn được hướng dẫn đến xem nghề bó chổi bằng cọng dừa nổi tiếng ở Mỹ An, một nghề “làm chơi mà ăn thiệt”. Tại đây, du khách sẽ tận mắt nhìn thấy sự khéo tay của “siêu sao bó chổi” là em Nguyễn Văn Tốt khoảng 16 – 17 tuổi. Từ 5 giờ 30 phút sáng đến 6 giờ chiều, em Tốt bó được 105 cây chổi, thu nhập 100.000đ/ngày. Ở đây, nhà nào cũng đầy chổi, chổi bó rồi, chổi đang bó…, tiếng quay dây cước vào trục nghe rè rè, tiếng kêu ken két đầy ấn tượng, rồi đến tiếng xe máy chở nguyên vật liệu ra vào, khiến làng chổi càng thêm nhộn nhịp. Người dân nơi đây cho biết: nghề này nhẹ nhàng, làm chơi mà ăn thiệt. Mỗi sản phẩm làm ra là một kỷ niệm thấm đẫm tình người, với biết bao niềm hy vọng tươi sáng của người dân hiền lành, chất phác ở một vùng quê sông nước xứ dừa luôn tin tưởng nghề này không bị mất đi và sản phẩm làm ra có nơi tiêu thụ.
Rời thị trấn Thạnh Phú vài km, du khách sẽ được thư thái hơn và thỏa sức ngắm nhìn những cách đồng lúa xanh mơn mởn xen với mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa hiện nay.
Ngoài ra, du khách có thể phiêu lưu mạo hiểm tìm hiểu thêm việc làm đáy hàng khơi của người dân Thạnh Phú tại Vàm Băng Cung – Giao Thạnh
Cũng theo Quốc lộ 57, du khách về xã biển Thạnh Hải khám phá sự hoang sơ của bãi biển nơi đây.
Đến xã biển Thạnh Hải, tại cồn Bửng những năm qua, người dân đã lập đền thờ 02 con cá Ông, mỗi con dài từ 22 đến 24m nặng hàng chục tấn. Tại đây còn lưu lại bộ xương sống của cá Ông. Cũng giống như một số địa phương có biển khác, sự thờ cúng cá Ông tạo ra một lễ hội trong đời sống văn hóa các xã vùng biển. Đây là một tín ngưỡng dân gian hình thành trong quá trình tiến biến văn hóa Việt Chăm diễn ra từ đèo Ngang trở vào. Lễ hội Nghinh Ông là dịp để người dân làm nghề biển thư giãn, lấy lại thăng bằng tâm linh sau những ngày lao động vất vả, đồng thời để tỏ lòng biết ơn đối với một sinh vật “thiêng" ở biển, mà trong tâm thức nhiều ngư dân vẫn chứa đựng một niềm tin về sự giúp đỡ của cá Ông khi gặp tai nạn. Hàng năm, cứ vào ngày lễ hội Nghinh Ông có hàng ngàn lượt du khách đến với cồn Bửng để tham quan. Đây cũng là điều kiện để du khách và học sinh, sinh viên tìm hiểu về động vật có vú sống dưới biển.
* Điểm đến huyện Thạnh Phú:
Trên bản đồ tỉnh Bến Tre, huyện Thạnh Phú nằm ở cuối cù lao Minh, chân đạp sóng biển Đông (với bờ biển dài 25 km, tính từ Vàm Rỏng đến Khâu Băng), phía tây giáp huyện Mỏ Cày Nam, phía nam giáp tỉnh Trà Vinh, ngăn cách bởi con sông Cổ Chiên, phía bắc giáp huyện Ba Tri, có ranh giới chung con sông Hàm Luông. Là một trong 3 huyện duyên hải của tỉnh Bến Tre, Thạnh Phú được biết đến với những cánh đồng bằng phẳng xen kẽ những giồng cát và những dải rừng ngập mặn ven biển. Huyện Thạnh Phú chưa phát triển mạnh về du lịch như: Châu Thành, Chợ Lách, nhưng Thạnh Phú cũng có nhiều tiềm năng, lợi thế khởi sắc phát triển du lịch. Hiện nay, Thạnh Phú đang dần dần thu hút du khách trong và ngoài tỉnh.
Sau khi qua địa phận huyện Mỏ Cày Nam, đến địa bàn Thạnh Phú du khách ghé Đại Điền thăm bia lưu liệm nơi làm lễ xuất quân của Tiểu đoàn 307 “đánh đâu được đấy - oai hùng biết mấy” của bộ đội ta trong thời kỳ chống thực dân Pháp.
Cũng tại xứ này, ai đến thăm cũng không khỏi bỡ ngỡ khi đứng trước ngôi nhà cổ đẹp, bề thế của gia tộc họ Huỳnh. Dẫu trải qua hàng trăm năm với bao cuộc bể dâu, ngôi nhà vẫn còn mang trong nó nét đặc sắc của nhà cổ đồng bằng và cái lộng lẫy của gia chủ một thời sung túc, đó là ngôi nhà cổ Hương Liêm. Nhà được cất theo hình chữ nhật, với 48 cây cột bằng gỗ lim và căm xe quý hiếm, chu vi khoảng 100 m. Tất cả cột, kèo, xiên được đục, kết gắn nhau liền lạc. Hoành phi sơn son thếp vàng với bốn chữ “Hiếu Để Trung Tín”. Thành vọng chạm, lọng, với những họa tiết phong cảnh, vật “tứ linh” thật sống động; mái nhà lợp ngói âm dương, trên mỗi miếng ngói có in hình sinh hoạt dân gian như mục đồng cỡi trâu, con gà, con cua, bó lúa rất gần gũi với đời sống sinh hoạt của nông dân.
Cấu trúc xây dựng nền nhà cũng thật đặc biệt. Nền cao 1 mét, viềng bọc nền là những thớt đá xanh dài khoảng 2-3 mét, được đục và gắn kết với nhau liền mặt bao quanh hết nền nhà. Về công thợ như: thợ chạm, lọng thành vọng, cột nhà, cửa nhà, vách nhà được tính tiền công qua số dăm mộc do thợ thao tác trong ngày. Đong ra cứ bao nhiêu chén dăm thì được trả bấy nhiêu tiền. Số thợ chuyên chạm, lọng ăn tiền rất cao. Về thời gian hoàn thành ngôi nhà, ông Huỳnh Ngọc Chất (cháu năm đời của cụ Hương Liêm, nay đã mất) từng cho biết ngôi nhà xây dựng vào những năm cuối của thế kỷ XIX. Ngày ấy, khi những người thợ đầu tiên đến động thổ, gác đòn dong dựng nhà, chủ gia mời họ ăn cam. Họ ăn những trái cam rồi nhã hột gần đó, hột lên cây và đến khi cây cho trái cam đầu tiên thì ngôi nhà mới hoàn thành. Như vậy, thời gian cất nhà khoảng 7 năm và để xong xuôi hết phần vách, thành vọng ở gian nhà giữa phải trên 10 năm. Với nhà xưa, người ta thường ví von: “Cất nhà ba tháng. Làm cửa ba năm”. Thợ làm nhà này là những người thợ tài hoa từ Bắc di cư vào Nam.
Đến đây, du khách không thể bỏ qua đặc sản truyền thống bánh dừa Giồng Luông nổi tiếng ở Thạnh Phú, một khi du khách đã thưởng thức rồi thì không thể nào quên bởi sự khéo tay của phụ nữ Đại Điền hay bì bún Giồng Luông cũng rất độc đáo.
Rời Đại Điền, đến Hòa Lợi du khách tham quan làng nghề truyền thống sản xuất lu chứa nước bằng chất liệu xi-măng, nghề ở đây “Cha truyền con nối” và sản phẩm này cũng được tiêu thụ tại địa phương, một số tỉnh và xuất khẩu sang Campuchia.
Trở ra Quốc lộ 57, trên đường đến trung tâm huyện Thạnh Phú, du khách ghé Mỹ Hưng tham quan nghề chằm nón. Nghề này do anh Trần Công Thành ở ấp Thạnh Hưng gầy dựng, bởi Bà ngoại của anh là người Huế, sống bằng nghề chằm nón lá bài thơ, do vậy mà anh gầy dựng nghề chằm nón là lẽ đương nhiên. Vì “không muốn nghề chằm nón bị mai một” là ước nguyện của người thân cũng như của anh, năm 1985 anh Thành đem nghề này truyền lại cho 30 hộ trong xóm. Anh Thành nhận xét bà con ở đây chằm nón rất khéo, có người chằm đẹp hơn thợ chằm nón lá ở Huế. Nón được chằm bằng lá cật phải mua tận Bến Cầu (Tây Ninh), còn vành nón được làm bằng tre của Thạnh Phú. Cứ thế, lá của Tây Ninh, vành của Bến Tre, người chằm nón ở Thạnh Hưng chăm chút, thổi hồn vào từng đường kim mũi chỉ khiến nón lá Mỹ Hưng càng nhìn càng dễ thương. Tham quan nơi đây, du khách sẽ cảm nhận và tận mắt chứng kiến sự khéo tay không chỉ có nữ mà còn có cả nam giới ở đây. Nghề này ít nhiều cũng đã góp phần cho địa phương giảm được tỉ lệ hộ nghèo cũng như giúp được người dân nơi đây có thêm thu nhập trong khoảng thời gian nhàn rỗi. Trên thực tế nón lá cũng là một sản phẩm phục vụ cho khách du lịch. Duy trì được nghề chằm nón cũng là góp phần bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống của dân tộc ta.
Không những tham quan nghề đúc lu, chằm nón, mà du khách còn được hướng dẫn đến xem nghề bó chổi bằng cọng dừa nổi tiếng ở Mỹ An, một nghề “làm chơi mà ăn thiệt”. Tại đây, du khách sẽ tận mắt nhìn thấy sự khéo tay của “siêu sao bó chổi” là em Nguyễn Văn Tốt khoảng 16 – 17 tuổi. Từ 5 giờ 30 phút sáng đến 6 giờ chiều, em Tốt bó được 105 cây chổi, thu nhập 100.000đ/ngày. Ở đây, nhà nào cũng đầy chổi, chổi bó rồi, chổi đang bó…, tiếng quay dây cước vào trục nghe rè rè, tiếng kêu ken két đầy ấn tượng, rồi đến tiếng xe máy chở nguyên vật liệu ra vào, khiến làng chổi càng thêm nhộn nhịp. Người dân nơi đây cho biết: nghề này nhẹ nhàng, làm chơi mà ăn thiệt. Mỗi sản phẩm làm ra là một kỷ niệm thấm đẫm tình người, với biết bao niềm hy vọng tươi sáng của người dân hiền lành, chất phác ở một vùng quê sông nước xứ dừa luôn tin tưởng nghề này không bị mất đi và sản phẩm làm ra có nơi tiêu thụ.
Rời thị trấn Thạnh Phú vài km, du khách sẽ được thư thái hơn và thỏa sức ngắm nhìn những cách đồng lúa xanh mơn mởn xen với mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa hiện nay.
Ngoài ra, du khách có thể phiêu lưu mạo hiểm tìm hiểu thêm việc làm đáy hàng khơi của người dân Thạnh Phú tại Vàm Băng Cung – Giao Thạnh
Cũng theo Quốc lộ 57, du khách về xã biển Thạnh Hải khám phá sự hoang sơ của bãi biển nơi đây.
Đến xã biển Thạnh Hải, tại cồn Bửng những năm qua, người dân đã lập đền thờ 02 con cá Ông, mỗi con dài từ 22 đến 24m nặng hàng chục tấn. Tại đây còn lưu lại bộ xương sống của cá Ông. Cũng giống như một số địa phương có biển khác, sự thờ cúng cá Ông tạo ra một lễ hội trong đời sống văn hóa các xã vùng biển. Đây là một tín ngưỡng dân gian hình thành trong quá trình tiến biến văn hóa Việt Chăm diễn ra từ đèo Ngang trở vào. Lễ hội Nghinh Ông là dịp để người dân làm nghề biển thư giãn, lấy lại thăng bằng tâm linh sau những ngày lao động vất vả, đồng thời để tỏ lòng biết ơn đối với một sinh vật “thiêng" ở biển, mà trong tâm thức nhiều ngư dân vẫn chứa đựng một niềm tin về sự giúp đỡ của cá Ông khi gặp tai nạn. Hàng năm, cứ vào ngày lễ hội Nghinh Ông có hàng ngàn lượt du khách đến với cồn Bửng để tham quan. Đây cũng là điều kiện để du khách và học sinh, sinh viên tìm hiểu về động vật có vú sống dưới biển.
Tìm hiểu và khám phá xong tại cồn Bửng, du khách đến xã Thạnh Phong, tại đây lịch sử hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã ghi lại hai lần bộ đội Miền Nam vượt biển từ xã Thạnh Phong ra miền Bắc xin chi viện vũ khí cho chiến trường miền Nam. Đầu cầu tiếp nhận vũ khí tại xã Thạnh Phong gồm có Vàm Khâu Băng, cồn Bửng (hiện nay thuộc xã Thạnh Hải), cồn Lợi, cồn Lớn, địa điểm di tích này du khách trong và ngoài tỉnh có thể đi bằng đường bộ hoặc đường thủy rất thuận tiện.
Tại vùng đất này, du khách còn khám phá “rừng ngặp mặn Thạnh Phú”, nằm trong quần thể vùng bưng trũng. Đây là phần đất nằm xa sông rạch hoặc xen kẽ giữa các giồng cát ven biển, thường bị ngập nước do lũ hoặc thủy triều chiếm một diện tích khá rộng từ vùng mặn, lợ lên vùng ngọt. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, rừng ngập mặn Thạnh Phú cũng như Bình Đại là căn cứ địa hình của tỉnh, của lực lượng vũ trang tỉnh, miền, là đầu cầu tiếp nhận vũ khí chi viện từ Trung ương cho chiến trường Nam Bộ. Riêng rừng Thạnh Phú giữ vị trí đầu cầu tiếp nhận vũ khí của đường Hồ Chí Minh trên biển trong nhiều năm liền.
Thạnh Phú chưa có điều kiện để du khách lưu trú tại đây. Sau khi du khảo điểm đến cuối của chuyến đi, du khách có thể chọn lưu trú qua đêm tại thị trấn Mỏ Cày Nam hay về thành phố Bến Tre. Trên đường về du khách có thể mua đặc sản làm qùa lưu niệm tại các cơ sở cặp hai bên Quốc lộ 57 (dưới dốc cầu Mỏ Cày Nam) hay đoạn dưới dốc cầu hàm Luông phía bờ Mỏ Cày Bắc hoặc du khách mua sắm tại các đại lý ở thành phố Bến Tre./.
Tại vùng đất này, du khách còn khám phá “rừng ngặp mặn Thạnh Phú”, nằm trong quần thể vùng bưng trũng. Đây là phần đất nằm xa sông rạch hoặc xen kẽ giữa các giồng cát ven biển, thường bị ngập nước do lũ hoặc thủy triều chiếm một diện tích khá rộng từ vùng mặn, lợ lên vùng ngọt. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, rừng ngập mặn Thạnh Phú cũng như Bình Đại là căn cứ địa hình của tỉnh, của lực lượng vũ trang tỉnh, miền, là đầu cầu tiếp nhận vũ khí chi viện từ Trung ương cho chiến trường Nam Bộ. Riêng rừng Thạnh Phú giữ vị trí đầu cầu tiếp nhận vũ khí của đường Hồ Chí Minh trên biển trong nhiều năm liền.
Điều vô cùng lý thú, nhất là cho những du khách thích phiêu lưu mạo hiểm, nếu du khách nghỉ đêm ở Thạnh Phong vào mùa ba khía hội, thì có thể đi theo những ngư dân lành nghề bắt ba khía trong rừng ngập mặn. Vào những đêm tối, trời yên biển lặng, ba khía ra khỏi hang, chúng bám dày đặc vào thân cây mắm, cây cóc hay bò trên những bãi bùn ven bờ rạch, du khách tha hồ bắt chúng vào giỏ. Hoặc theo người dân, ngồi trên những chiếc ghe nhỏ để len lỏi theo những con rạch nhỏ sâu trong rừng mắm, cóc, đước…và thưởng thức bản hòa tấu của một số loài chim, qua đó mà trải nghiệm thú vị trong một chuyến du lịch về vùng đất biển Thạnh Phú.
Là một trong ba huyện duyên hải của Bến Tre, Thạnh Phú đã tận dụng hết những tiềm năng vốn có để nuôi trồng và khai thác thủy sản như: Tôm, cua, sò, nghêu… Và Thạnh Phú ngày nay đã cũng được nhiều du khách biết đến qua những món hải sản như cua biển (cua gạch điều), tôm, sò huyết, nghêu, ba khía…Thạnh Phú chưa có điều kiện để du khách lưu trú tại đây. Sau khi du khảo điểm đến cuối của chuyến đi, du khách có thể chọn lưu trú qua đêm tại thị trấn Mỏ Cày Nam hay về thành phố Bến Tre. Trên đường về du khách có thể mua đặc sản làm qùa lưu niệm tại các cơ sở cặp hai bên Quốc lộ 57 (dưới dốc cầu Mỏ Cày Nam) hay đoạn dưới dốc cầu hàm Luông phía bờ Mỏ Cày Bắc hoặc du khách mua sắm tại các đại lý ở thành phố Bến Tre./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét